Truyền thống văn hóa
II. SỰ HÌNH THÀNH DÂN CƯ, LÀNG XÓM, TÊN GỌI VÀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH QUA CÁC THỜI KỲ
Trước Cách mạng tháng 8/1945, địa danh Xuân Liên chưa xuất hiện, tiền thân của xã là các làng Phú Lạp - Thiên Linh, Cương Đoán và trang Cam Lâm. Các làng này đều nằm trong tổng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân.
Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thực hiện thực hiện chủ thị của cấp trên, huyện Nghi Xuân từ 5 tổng với 33 làng, xã cũ được tổ chức lại thành 13 xã mới, các xã Cương Đoán, trang Cam Lâm, xã Liêu Động, Phú Lạp, Cổ Đạm, thôn Vân Hải được hợp nhất thành xã Hoa Khê. Tháng 6/1954, sau khi phát động quần chúng triệt để giảm tô, Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4 chủ trương tách các xã lớn ra thành các xã nhỏ. Theo đó, các làng Phú Lạp - Thiên Linh, Cương Đoán và trang Cam Lâm được tách ra lập thành xã mới, lấy tên là xã Xuân Liên[1].
Trải qua nhiều lần tách, nhập, các thôn, xóm, làng cũ, đến nay, toàn xã có …… hộ với …… khẩu, tập trung trong …. thôn, xóm.
Do tư liệu về quá trình hình thành dân cư và làng xã của vùng đất Xuân Liên còn lại rất ít nên chỉ có thể trình bày khái quát quá trình hình thành một số làng của Xuân Liên như sau:
- Làng Cam Lâm
Trước cách mạng là làng Cam Lâm gọi là Trang Cam Lâm, (Trang này chiếm nửa phần đất của xã Xuân Liên ngày nay). Theo gia phả họ Trần ở đây thì ông Trần Cảnh vốn là người của xã Thịnh Lộc (huyện Lộc Hà ngày nay), đến ngụ cư tại xã Phú Lạp (nay là xã Cổ Đạm). Năm Mậu Thìn (1568), ông xin xã bãi cát ven biển rồi rủ thêm hai ông Nguyễn Nhật Tân và Lê Công Toản (người Phú Lạp) cùng đến đến khai hoang. Một hôm, trên bãi cát ven biển đó có một con cá Ông Voi to đã chết bị sóng đánh dạt vào. Ba ông tổ chức chôn cất và dựng hai ngôi đền: Đền Thượng thờ Ngư Ông (đền Đông Hải); đền Bản Thổ thờ Thành Hoàng ấp với mong muốn cầu xin ngài phù hộ độ trì cho người dân nơi đây an cư lạc nghiệp. Cũng từ đó, dân đến đây định cư ngày càng nhiều, lập thành một làng đông đúc, việc làm ăn, đi biển đánh cá gặp nhiều thuận lợi. Ông bèn viết tấu lên trên xin lập ấp mang tên “Tiên Ấp” nhưng trên chỉ duyệt cho cái tên “Hạ Mão Ấp”. Về sau, vùng đất được chuyển từ Hạ Mão ấp thành Cam Tuyền trại. Đến đời Cảnh Hưng được công nhận là “Cổ Đạm tổng, Phú Lạp xã, Cam Tuyền trang”.
Hiện nay, trang Cam Lâm gồm có 5 thôn: Lâm Hoa, Lâm Hải, Lâm Thịnh, Lâm Phú, Lâm Vượng, nghề nghiệp chủ yếu là khai thác thuỷ sản.
- Làng Cương Đoán
Về việc ra đời, phát triển làng Cương Đoán nói riêng và các làng cổ ven biển Nghi Xuân nói chung, sử chép: Trước kia, khi biển còn nằm sâu trong lục địa và do quá trình vận động kiến tạo của địa chất, lục địa ngày càng lấn dần ra biển. Khoảng thế kỷ XIV, huyện Chân Phúc (gồm huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) được mở rộng ra so với bờ biển xưa khoảng 3 - 5km, kéo dọc từ cửa Xá (Của sông Cấm, làng Thượng Xá - Nghi Lộc - Nghệ An) đến Lạch Kèn (Cửa Phượng Giang - làng Cương Gián) dài trên 40km. Thời đó, dọc bãi biển còn hoang sơ này chỉ là những cồn cát khô cằn, xen kẽ là những lùm, lòi và dần dần cư dân ở các nơi khác tìm đến khai phá đất đai để trồng trọt và làm nghề đánh cá, xây dựng cuộc sống mới. Do vậy, dần hình thành nên những cụm dân cư và những cụm dân cư này ngày càng phát triển quần tụ lại thành những làng mạc sầm uất.
Còn theo một câu chuyện truyền miệng dân gian thì khoảng cuối thế kỷ XIV, ở làng Canh Hoạch (nay là Thạch Mỹ - Lộc Hà - Hà Tĩnh) có hai anh em là Hoàng Quế và Hoàng Mỹ, đến vùng Phú Lạp định cư và lập nghiệp. Một đêm nọ, có một người khách bộ hành lỡ đường, xin vào ngủ trọ trong nhà hai anh em. Sáng ra, người khách lỡ đường đó đã chết, bị mối vùi lên thành đống (dân làng gọi là mộ thiên táng). Hoảng sợ quá, hai anh em bỏ trốn. Người anh Hoàng Quế tìm đến vùng đất dưới chân Núi Hồng (nay là xã Xuân Viên) lập nghiệp. Người em tìm đến vùng Cương Đoán (nay làng Cương Thịnh, xã Xuân Liên) sinh sống. Tại hai nơi này, hai anh em đã khai hoang lập trại, dần có cuộc sống ổn định. Sau có một số người thuộc dòng họ khác về quy tụ tại đây cùng nhau sinh cơ lập nghiệp. Như vậy, có thể coi ông Hoàng Mỹ là người đầu tiên đến gây dựng làng Cương Đoán.
Làng đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau như là làng Bừ, làng Thìn, Lâm An. Làng có ba thôn: Cường Thịnh, Trung Thịnh và An Phú Lộc1
- Phú Lạp - Thiên Linh
Theo các tư liệu mà nhân dân ở đây có được thì Phú Lạp - Thiên Linh ngày nay được hình thành gồm 4 thôn: Linh Trung, Linh Vượng, Linh Trù, Linh Tân
III. NHỮNG NÉT NỔI BẬT TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI XUÂN LIÊN
1. Đời sống vật chất
Ngành nghề chủ yếu: Với đặc thù của một xã vùng biển, nhân dân nơi đây sống bằng hai nghề chủ yếu là nông nghiệp và ngư nghiệp (7 xóm làm nông nghiệp và 5 xóm làm ngư nghiệp). Ngoài ra, trong từng thời kỳ, bà con còn làm thêm một số nghề phụ khác như chế biến hải sản, làm mộc, đan lát, xây dựng....
Về nông nghiệp: Với đặc thù thổ nhưỡng là đất cát và sét dốc tụ bạc màu, không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, lại chịu ảnh hưởng của thời tiết nên mỗi năm bà con chỉ làm được một vụ lúa chiêm, năng suất rất thấp: từ 30 - 40 kg/sào Trung Bộ (500m2) nên đời sống của bà con nông dân rất khó khăn, cảnh thiếu đói thường xuyên sảy ra.
Ngoài trồng trọt, đánh bắt hải sản thì việc chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối truyền thống cũng rất phổ biến. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, do những khó khăn trong vấn đề lương thực nên mức độ chăn nuôi còn rất hạn chế. Chăn nuôi trâu, bò chỉ có ở các gia đình trung nông trở lên. Ngày nay, các hoạt động chăn nuôi của xã đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, và trở thành một trong những nghề chính của bà con.
Về ngư nghiệp: đi biển từ lâu đã là nghề chính của ngư dân Xuân Liên. Trước đây, chỉ có những hộ giàu có mới có tiền đóng tàu, thường gọi là chủ thuyền; còn người dân vạn chài thì bỏ sức lao động chống, chèo thuyền ra khơi đánh cá. Vì vậy, nguồn hải sản đánh bắt được, thường đem về chia đôi, chủ thuyền một nửa, vạn chài một nữa, trong khi chủ thuyền chỉ có một, vạn chài thì đông. Thế nên, người vạn chài bấy giờ “chồng con cá, vợ lá rau” vẫn không đủ sống. Đó là chưa kể, những tai nạn rủi ro ngoài khơi xa, cảnh bão tố lật thuyền, mất mát tang thương thường xuyên xảy ra... thân phận của những người dân vạn chài lúc bấy giờ rất khổ cực. Ngày nay, các phương tiện đánh bắt đã được cơ giới hóa bằng các loại thuyền gắn máy, được trang bị các thiết bị dự báo thời tiết hiện đại nên năng suất đánh bắt được nâng cao, đời sống của ngư dân đã trở nên khấm khá.
Không chỉ có nghề đánh bắt mà nghề chế biến hải sản, nghề đan lưới ở Xuân Liên cũng rất phát triển, một thời làm nên những làng biển trù phú nhất nhì trong tỉnh như làng đan lưới Cam Lâm, được xếp ngang với những nghề truyền thống ở Nghi Xuân như đúc gang Uy Viễn, đúc đồng Tả Ao, mắm tươi An Lạc, Báu Lâm, đan nón Tiên Điền...
Bên cạnh đó, các ngành nghề phụ như mộc, xây dựng... cũng khá phổ biến, chủ yếu làm để phục vụ nhu cầu trong gia đình, trong làng xã... Ngày nay, các ngành nghề này đang có xu hướng phát triển, cho thu nhập khá nên được nhiều người quan tâm, nhất là các dịch vụ sửa chữa xe máy, cơ khí, chế biến lương thực... Việc mở rộng các ngành nghề, giao lưu, buôn bán và dịch vụ cũng đã và đang được Đảng bộ và nhân dân Xuân Liên đẩy mạnh.
Ăn, ở: Trước đây, nhiều gia đình nông dân và ngư dân ở đây thường đứt bữa; khoai nhiều hơn cơm. Thức ăn chủ yếu là rau, nhút, tương cà. Ngoài ra còn có những thức ăn được chế biến từ hải sản như: tôm, cua, cá, hoặc các loại mắm chế biến từ hải sản như mắm tôm, mắm cá… cuộc sống khó khăn, chật vật, đã tạo nên cho người dân nơi đây một tập quán ăn uống cần kiệm.
Ngày nay, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân đã được nâng lên rõ rệt, cái ăn của con người cũng nhiều sự lựa chọn phong phú và đa dạng hơn, tùy thuộc theo nhu cầu và điều kiện kinh tế của từng nhà. Tuy nhiên, người dân nơi đây vẫn giữ được những nét đẹp xưa, không xa hoa, lãnh phí.
Cũng như các cư dân miền biển xưa, nhà ở của người dân nơi đây thường thấp để tránh bão, 2 chái, có kết cấu các vì kèo và hệ thống cột cái. Nhà nghèo chủ yếu làm bằng tranh, tre, nứa, lá. Quanh nhà thưng bằng phên nứa hoặc trát bằng bùn trộn với rơm, mái lợp bằng tranh. Kiểu nhà này phải có cột chôn sâu trong lòng đất để tránh gió bão.
2. Đời sống tinh thần
Tín ngưỡng, tôn giáo: Trước đây, cũng như nhiều vùng quê khác của nước ta, người dân Xuân Liên rất tôn trọng Nho giáo. Dù nhà giàu hay nhà nghèo, có học hay thất học, ai cũng muốn học được một ít chữ thánh hiền của Đức tổ Khổng Tử như “tam cương”: quân - sư - phụ, “ngũ thường”: vua - tôi; cha - con; vợ - chồng; anh - em; bạn bè - bằng hữu; “tứ đức”: công - dung - ngôn - hạnh của người con gái... để đối nhân xử thế trong cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, ai cũng rất coi trọng triết lý “từ - bi - hỷ - xã” mong cứu khổ, cứu nạn cho con người của Phật pháp. Bởi các triết lý đó phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc từ ngàn đời để lại. Bằng chứng là trong một số làng có nhà Thánh Văn thờ Khổng Tử và có chùa thờ Đức phật. Hiện nay, các công trình ấy không còn nữa do chiến tranh hoặc do quá trình hợp tự trong kháng chiến chống Pháp hay sau hòa bình lập lại (1948, 1954) đã bị phá.
Sinh hoạt văn hóa: Hàng năm, ở đây có Hội cầu Ngư được tổ chức tại đền Đông Hải Đại Vương để cầu mong mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, bà con đi biển yên lành và thu được nhiều tôm cá... Các sinh hoạt văn hoá dân gian cũng rất phong phú và đa dạng, trở thành một trong những món ăn tinh thần không thể thiếu của các cư dân Xuân Liên xưa.
Xuân Liên còn là vùng nổi tiếng về Hội hát trò và phong trào văn nghệ dân gian. Xã có một đội hát Trò Kiều nổi tiếng khắp huyện, được mời biểu diễn ở nhều nơi. Cứ mỗi năm hai lần, khi Tết đến xuân về hoặc vào các ngày hội cầu Ngư ở những làng ven biển, tiếng trống trò và tiếng hát trò vang lên, thu hút bà con trong vùng đến thưởng thức. Tất cả các sinh hoạt văn hoá, thể dục, thể thao... đều thể hiện tình yêu nghệ thuật, yêu cuộc sống và tinh thần đoàn kết, yêu quê hương, làng xóm của người dân ở đây.
Những nét riêng, đặc trưng về đời sống vật chất, tinh thần của người dân nói trên đã góp phần tạo nên một vùng quê mang đậm dấu ấn của làng quê nông thôn miền biển Việt Nam: giản dị, đằm thắm, nghĩa tình, hiền hoà và chan chứa yêu thương.
[1] Các vùng còn lại hợp thành xã Xuân Hoa. Đến năm 1972, Nghi Xuân tiếp tục có sự điều chỉnh tên làng xã: xã Xuân Hoa đổi thành xã Cổ Đạm còn xã Xuân Liên vẫn giữ tên cũ đến ngày nay. Như vậy, trước năm 1956, Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Xuân Liên gắn liền với Lịch sử Chi bộ và nhân dân tổng Cổ Đạm. Do đó, mặc dầu tên gọi Xuân Liên chưa ra đời nhưng để dễ trình bày và theo dõi các vấn đề, chúng tôi quyết định dùng tên xã hiện nay để trình bày lịch sử Đảng bộ và nhân dân của xã.
1 Trước đây là xóm Cương Phúc, xóm này ở sâu tận vùng lúa phía tây. Sau khi có chủ trương khai hoang, xóm chuyển ra phía đông đường 22/12 và phía tây đường ra khu vực làng Cam Lâm. Sau khi hợp nhất HTX, lxóm chuyển về ở với dân cư vùng giáo thuộc xóm Lâm An, Cam Lộc tạo nên thôn An - Phúc - Lộc. Dân cư là đồng bào theo đạo Thiên Chúa.